HÀNH VI CỦA ĐIỂU T CÓ PHẠM TỘI HAY KHÔNG?
Trương Thanh Tuấn
2014-08-24T22:43:40-04:00
2014-08-24T22:43:40-04:00
https://vksbinhphuoc.gov.vn/Dien-dan-nghiep-vu/HANH-VI-CUA-DIEU-T-CO-PHAM-TOI-HAY-KHONG-76.html
/themes/vks21/images/no_image.gif
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước
https://vksbinhphuoc.gov.vn/uploads/banners/logo-vks_2.png
Điểu T có vay của bà Trần Thị H số tiền 100.000.000 đồng, sau khi đến hạn trả nhưng T không thanh toán được nên bà H làm đơn khởi kiện ra Toà án giải quyết. Khi bản án có hiệu lực thì Cơ quan Thi hành án tiến hành cưỡng chế đối với mảnh đất diện tích 01 ha đất trồng cây Điều, cà phê của Điểu T. Sau khi Cơ quan Thi hành án huyện BĐ, tỉnh BP trưng cầu bán đấu giá mảnh đất này thì ông Nguyễn Văn B là người mua và đã làm thủ tục sang nhượng mảnh đất từ Điểu T cho ông Nguyễn Văn B vào năm 2011. Sau khi sang nhượng mảnh đất này ông B đã cho người vào chăm sóc, phát cỏ thì bị Điểu T ngăn cản, dùng lời lẽ hâm doạ không cho làm vì cho rằng không đồng ý với việc cưỡng chế, bán đất của Cơ quan Thi hành án đồng thời tiến hành thu hoạch hoa lợi trên đất trong 02 năm 2012, 2013 với giá trị khoảng 70.000.000 đồng. Nay ông Nguyễn Văn B làm đơn tố cáo hành vi của Điểu T.
Hỏi hành vi của Điểu T có phạm tội hay không? Nếu có thì tội gì?
Quan điểm thứ nhất, hành vi của Điểu T phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự. Vì cho rằng tội "Cưỡng đoạt tài sản" có hành vi khách quan "đe doạ sẽ dùng vũ lực…" là hành vi doạ sẽ gây thiệt hại đến sức khoẻ, tính mạng trong tương lai nếu không thoả mãn yêu cầu chiếm đoạt của người phạm tội. Khác với tội "Cướp tài sản" đe doạ "dùng vũ lực ngay tức khắc" thì tội "Cưỡng đoạt tài sản" là đe doạ "sẽ dùng vũ lực" tức là dùng vũ lực trong tương lai, có khoảng cách về thời gian. Sự đe doạ này không có tính nguy hiểm như tội cướp. Trong trường hợp này Điểu T đã ngăn cản, dùng lời lẽ để doạ người nhà và cả ông B để không cho vào canh tác trên đất của ông B (theo pháp luật thì đất này thuộc về B) đồng thời T đã thu hoa lợi trên đất trong 02 năm do vậy hành vi của Điểu T cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Quan điểm thứ hai, cho rằng hành vi của Điểu T phạm tội “Không chấp hành án” theo quy định tại Điều 304 của Bộ luật hình sự. Vì Điểu T khi đã được cơ quan Thi hành án cưỡng chế bán đất và ông B là người nhận sang nhượng nhưng khi ông B thực hiện việc canh tác trên đất thì bị Điểu T ngăn cản, đe doạ đồng thời không chịu giao, vẫn giữ đất để sản xuất thu hoạch hoa lợi trên đất, tức là không thực hiện đúng nghĩa vụ giao đất cho gia đình ông B. Hành vi này của Điểu T trước khi xem xét xử lý hình sự cần xử lý hành chính. Nếu đã bị xử lý hành chính mà T vẫn không chấp hành thì xử lý hình sự về tội “Không chấp hành án”.
Quan điểm thứ ba, cho rằng hành vi của Điểu T phạm vào tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai” theo Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì cho rằng trong trường hợp này đất đã thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông B chứ không phải của Điểu T nữa. Việc T ngăn cản không cho ông B vào canh tác là dùng thủ đoạn chiếm lấy đất của người khác làm đất của mình đáp ứng dấu hiệu cơ bản của tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai”. Tuy nhiên nếu muốn xử lý về tội này thì phải gây hậu quả nghiêm trọng (đây là dấu hiệu bắt buộc). Nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì điểu T phải bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa xoá án tích mà còn vi phạm thì mới xử lý hình sự đối với T được.
Qua 03 quan điểm nêu trên tôi cơ bản đồng tình với quan điểm thứ hai bởi vì nhìn tổng thể nội dung vụ án thì hành vi của Điểu T quy chung lại là không chịu giao đất cho người khác khi Bản án của Toà án có hiệu lực và không đồng ý với việc cưỡng chế bán đất của Cơ quan Thi hành án. T vẫn muốn giữ lại đất của mình để canh tác, sản xuất mà không chịu giao lại cho ông B mặc dù ông B là người nhận sang nhượng đất hợp pháp. Hành vi của điểu T có dấu hiệu của tội “Không chấp hành án” rõ hơn so với các tội phân tích còn lại.
Tuy nhiên, để có cách nhìn đúng đắn, chính thống hơn về đường lối giải quyết về vụ án nêu trên tôi mong nhận được nhiều ý kiến phản hồi của các đồng chí trong Ngành.
Tác giả bài viết: Trương Thanh Tuấn
Trang thông tin điện tử Viện KSND tỉnh Bình Phước có đăng bài định tội danh đối với hành vi của Điểu T của tác giả Trương Thanh Tuấn, theo đó có 03 quan điểm về việc định tội danh và hành vi của Điểu T có thể cấu thành các tội như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng hành vi của Điểu T đã phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo Điều 135 BLHS
Quan điểm thứ hai cho rằng hành vi của Điểu T đã phạm tội “Không chấp hành án” theo Điều 304 BLHS.
Quan điểm thứ ba cho rằng hành vi của Điểu T đã phạm tội “Vi phạm các qui định về sử dụng đất đai” theo Điều 173 BLHS.
Qua nghiên cứu bài viết của tác giả về hành vi phạm tội của Điểu T, quan điểm của chúng tôi không đồng tình với các quan điểm nêu trên. Tôi sẽ đi sâu phân tích, làm rõ những dấu hiệu, hành vi cấu thành các tội phạm khác liên quan đến các quan điểm cho rằng hành vi phạm tội của Điểu T đã phạm vào các tội nêu trên, dẫn đến việc hiểu chưa thống nhất về hành vi phạm tội của Điểu T như các quan điểm đã nêu.
Trước hết phải khẳng định hành vi của Điểu T không cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản” vì chưa thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Bởi lẽ: Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội “Cưỡng đoạt tài sản” là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Nhưng hành vi của Điểu T sau khi biết được Cơ quan thi hành án dân sự cưỡng chế giao đất cho ông B, ông B vào chăm sóc thì Điểu T mới dùng lời lẽ hăm dọa không cho làm vì cho rằng không đồng ý với việc cưỡng chế, bán đất của cơ quan thì hành án và đất này vẫn thuộc quyền sỡ hữu của Điểu T. Đồng thời thu hoạch trong hai năm, năm 2012 và năm 2013. Nhưng trong thời gian này ông B có đủ điều kiện để đi báo chính quyền địa phương đến để can ngăn Điểu T, nhưng ông B không báo mà lại để cho Điểu T thu hoạch hoa lợi trong một thời gian dài. Như vậy hành vi của Điểu T không thỏa mãn dấu hiệu khách quan của tội “Cưỡng đoạt tài sản” nên không cấu thành tội “ Cưỡng đoạt tài sản”
Còn đối với quan điểm thứ hai cho rằng trước khi xem xét xử lý về mặt hình sự đối với tội “Không chấp hành án” cần xử lý hành chính. Quan điểm của chúng tôi xét thấy hành vi của Điểu T đã phạm vào tội “Không chấp hành án”. Bỡi lẽ tội không chấp hành án Điều 304 BLHS qui định “Người nào cố ý không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Theo đó dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội không chấp hành án là: Chủ thể của tội phạm này là người có nghĩa vụ phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Những người này có thể đương sự trong vụ án dân sự, người bị kết án trong vụ án hình sự v v…. và nghĩa vụ đó được xác lập bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án. Do đó có thể khẳng định người phải thi hành án thỏa mãn dấu hiệu về chủ thể của tội không chấp hành án.
Còn về mặt khách quan thì tội không chấp hành án thể hiện dưới dạng hành vi không thực hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết. Như vậy, một người chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án khi người đó có hành vi cố ý không thực hiện bản án, quyết định của Tòa án sau khi đã áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết.
Từ những qui định của điều luật nêu trên biện pháp cưỡng chế cần thiết nên hiểu như thế nào? Cưỡng chế nếu hiểu theo nghĩa rộng là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của các cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp mà pháp luật qui định, nhằm buộc các cá nhân hay tổ chức đó phải thực hiện hoặc không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải chịu những hạn chế nhất định về tài sản …..
Theo qui định có bốn biện pháp cưỡng chế Nhà nước đó là cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự, cưỡng chế kỷ luật và cưỡng chế hành chính.
Về biện pháp cưỡng chế hành chính thì bao gồm nhiều loại trong đó có biện pháp xử phạt hành chính. Vấn đề đặt ra là xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án có được coi là biện pháp cưỡng chế cần thiết trong qui định của điều 304 BLHS hay không. Theo quan điểm của chúng tôi xét trong phạm vi hẹp mà cụ thể là trong lĩnh vực thi hành án dân sự thì biện pháp cưỡng chế chính là các biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết qui định tại chương IV Luật thi hành án dân sự có hiệu lực từ ngày 01/07/2009 bao gồm:
Khấu trừ tiền trong tài khoản; Thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản do người thứ ba giữ; Khai thác tài sản của người phải thi hành án; Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ; Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định.
Như vậy, chúng ta không thể và không được coi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng chế cần thiết.
Bởi lẽ: Xử phạt vi phạm hành chính không phải là biện pháp cưỡng chế cần thiết mặc dù biện pháp này do Cơ quan thi hành án tiến hành. Nếu coi xử phạt hành chính là biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết và trường hợp người có nghĩa vụ thi hành án mà không tự nguyện thi hành bị xử phạt hành chính được qui định tại Điều 162 Chương VII luật thi hành án dân sự như sau:
1. Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để thực hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng.
2. Cố tình không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay.
3. Không thực hiện công việc phải làm hoặc không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định.
4. Có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
5. Tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản.
6. Không thực hiện yêu cầu của chấp hành viên về việc cung cấp thông tin, giao giáy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án mà không có lý do chính đáng.
7. Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất dấu hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
8. Chống đối, cản trở hay xúi dục người khác chống đối, cản trở; có lời nói, hành động lăng mạ,xúc phạm người thi hành công vụ trong thi hành án; gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở ngại cho hoạt động thi hành án dân sự nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
9. Phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
10. Không chấp hành quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài sản, trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án.
Ngoài ra tại khoản 1,2 Điều 165 Luật thi hành án dân sự qui định:
1. Người phải thi hành án cố ý không chấp hành bản án, quyết định; không tự nguyện thi hành các quyết định về thi hành án thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo qui định của pháp luật.
2. Cơ quan tổ chức, cá nhân không thực hiện các quyết định về thi hành án thì tùy theo tính chất và mực độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, nếu là cá nhân thì còn có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, mức độ vi phạm của người phải thi hành án được phân ra có nhiều mức độ khác nhau nếu nhẹ thì bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc nếu nặng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự chứ không coi dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính làm dấu hiệu định tội hình sự; đặc biệt Điều 304 BLHS cũng không qui định là “Đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm” mà qui định “Đã áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết mà còn vi phạm”. Do đó theo chúng tôi không thể coi bị xử phạt vi phạm hành chính là biện pháp cưỡng chế cần thiết để xử lý hình sự đối với Điểu T.
Trở lại nội dung vụ án mà tác giả nêu trên thì hành vi của Điểu T khi đã được Cơ quan thi hành án dân sự làm đầy đủ các thủ tục như kê biên, định giá, bán đấu giá và cưỡng chế giao đất cho ông B là người được mua trúng đấu giá, ông B đã làm thủ tục quyền sỡ hữu. Nhưng Điểu T vẫn tiếp tục ngăn cản, đe dọa không chịu giao, vẫn giữ đất để sản xuất thu hoạch hoa lợi trên đất không thực hiện quyết định cưỡng chế của Cơ quan thi hành án dân sự để giao đất cho ông B. Với những phân tích nêu trên thì hành vi của Điểu T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Không chấp hành án” mà không cần thiết phải xử lý hành chính thì mới xử lý hình sự.
Đối với quan điểm thứ ba cho rằng hành vi của Điểu T có dấu hiệu của tội “Vi phạm các qui định về sử dụng đất đai” nhưng muốn xử lý về hình sự thì phải xử lý hành chính.
Theo quan điểm của chúng tôi thì hành vi của Điểu T không có dấu hiệu của tội “Vi phạm các qui định về sử dụng đất đai”. Bỡi lẽ: Dấu hiệu về mặt khách quan của tội này là người phạm tội có hành vi lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các qui định của Nhà Nước về quản lý và sử dụng đất đai.
Mà hành vi lấn chiếm đất có nghĩa là lấy thêm đất liền kề với đất của mình nhằm mục đích mở rộng diện tích, còn chiếm đất là dùng thủ đoạn chiếm lấy đất của người khác làm đất của mình mà trước đó mình không hề có. Nhưng đất này trước đây là thuộc sở hữu của Điểu T nên Điểu T không đồng ý giao cho ông B nên mới chiếm để sản xuất và thu hoa lợi trên đất.
Như vậy theo các dấu hiệu khách quan của tội “Vi phạm các qui định về sử dụng đất đai” thì Điểu T không thỏa mãn các dấu hiệu như đã phân tích nêu trên nên không phạm tội “Vi phạm các qui định về sử dụng đất đai”
Tóm lại: Với những phân tích và lập luận nêu trên, theo quan điểm của chúng tôi thì hành vi của Điểu T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Không chấp hành án ” qui định tại Điều 304 BLHS.
Rất mong nhận được các ý kiến trao đổi phản hồi của các đồng nghiệp.