07 trường hợp Viện kiểm sát bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự
Thứ năm - 20/07/2017 16:19Một là, đã phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ của Cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhưng người bị bắt, bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật;
Hai là, đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam, quyết định gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 34 của Luật này; đã quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng căn cứ kết quả điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;
Ba là, đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
Bốn là, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;
Năm là, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
Sáu là, Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;
Bảy là, Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và sau đó Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm./.
Những tin mới hơn
- Chỉ thị 10/CT-TTG của thủ tướng chính phủ (20/09/2019)
- Tòa án nhân dân tối cao công bố 3 án lệ (23/09/2019)
- Quy trình giám định tư pháp đối với sản phẩm văn hóa (23/09/2019)
- Hướng dẫn tiếp xúc, cung cấp, phản hồi thông tin cho báo chí và thực hiện quảng cáo trên báo chí (06/01/2020)
- Luật An ninh mạng 2018 (17/09/2019)
- Quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ (16/09/2019)
- Hướng dẫn về hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính (04/04/2019)
- Kế hoạch tổ chức thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp ngành Kiểm sát năm 2019 (10/07/2019)
- Kế hoạch triển khai thi hành Luật Thi hành án hình sự năm 2019 (26/08/2019)
- 28 tội danh người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS (20/07/2017)
Những tin cũ hơn
- Thêm 01 cấp Tòa án có trách nhiệm giải quyết khiếu nại về trả lại đơn khởi kiện (18/07/2017)
- Quy định về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong TAND (03/07/2017)
- Kỹ năng luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm (30/06/2017)
- Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giải quyết tin báo, tố giác tội phạm thực trạng và một số giải pháp (30/06/2017)
- Kinh nghiệm từ thực tiễn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự (28/06/2017)
- BLTTDS năm 2015 bổ sung 03 loại nguồn chứng cứ mới (28/06/2017)
- Hiểu thế nào về “im lặng” trong hình sự, dân sự? (28/06/2017)
Mã an toàn:
Ý kiến bạn đọc